‘Trung Quốc nên đề phòng bom nợ’
Sáu năm trước, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cảnh báo rằng nền kinh tế Trung Quốc “không ổn định, khó giám sát và không bền vững”. Tình hình hiện tại ở Trung Quốc thậm chí còn khiến những lo lắng của người dân trở thành hiện thực.
Tuyên bố này nhằm thay đổi mô hình kinh tế vốn chỉ dựa vào đòn bẩy của Trung Quốc. Đây là khoản đầu tư lớn vào đường xá, nhà máy và các cơ sở hạ tầng khác. Điều này làm cho nó trở thành một quốc gia mạnh về sản xuất. Sau đó, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra. Để giúp nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, nhà chức trách Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch kích cầu 500 tỷ USD và yêu cầu các ngân hàng cung cấp lượng vốn lớn. Kết quả là tỷ lệ đóng góp của đầu tư vào tổng sản phẩm quốc nội của đất nước đạt 48%, đây là mức kỷ lục đối với tất cả các nước lớn trên thế giới.
Điều gây sốc hơn nữa là sự bùng nổ đầu tư vào các hạn mức tín dụng do đất nước tự do này cung cấp. Vào tháng 1 năm nay, mức tăng tín dụng hàng năm lên tới 27,5 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2007, gấp hơn 4 lần so với năm 2007. Năm ngoái, gần một nửa số khoản vay mới đến từ những người cho vay đen. Khách hàng thường là chính quyền địa phương gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng.
Nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc vào đầu tư lớn của chính phủ. Ảnh: The Wall Street Journal-Kể từ năm 2008, tổng nợ công và nợ tư nhân của quốc gia này đã lên tới hơn 200% GDP. Đây là kỷ lục cao nhất trong số tất cả các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư vẫn cho rằng điều này ít ảnh hưởng đến hệ thống tài chính và tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
Tuy nhiên, quan điểm này bỏ qua nhiều bằng chứng quan trọng được công bố trong nghiên cứu năm 2008 về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. Vấn đề là tốc độ tăng trưởng chứ không phải tổng nợ, đặc biệt là nợ tư nhân. Nợ tư nhân của Trung Quốc được tính bằng hầu hết các khoản vay của chính phủ (chẳng hạn như chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhà nước).
Theo dữ liệu này, Trung Quốc đang trong tình trạng báo cáo. di động. Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) cho biết tỷ lệ nợ tư nhân trên GDP đã tăng 6% trong thập kỷ qua, đây là dấu hiệu đầu tiên của cuộc khủng hoảng tài chính. Hiện tại, tốc độ tăng trưởng này ở Trung Quốc là 12%, cao hơn so với các đỉnh tín dụng trước đó ở Nhật Bản năm 1989, Hàn Quốc năm 1997, Hoa Kỳ năm 2007 và Tây Ban Nha năm 2008.
Một dấu hiệu cho thấy Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã phát hiện ra một cuộc khủng hoảng khác. Quỹ (IMF). Nói cách khác, tín dụng tư nhân đã tăng nhanh hơn GDP trong 3 đến 5 năm liên tiếp, và tỷ trọng nợ tư nhân trong GDP cũng tăng lên. Ở Trung Quốc, kể từ năm 2008, nợ tư nhân đã tăng nhanh hơn GDP, và tỷ lệ GDP đã tăng từ 0,5% lên 180%, tương tự như Hoa Kỳ và Nhật Bản trước khủng hoảng.
Các nhà đầu tư lạc quan tin rằng những quy tắc tài chính này không thể được thực thi. Để sử dụng ở Trung Quốc. Họ giải thích rằng khủng hoảng ngân hàng thường do nhu cầu tiền tệ của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Đồng thời, Trung Quốc hầu như không có nợ nước ngoài.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu “Đòn bẩy lớn” được phát hành bởi Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia vào tháng 8 năm 2012, Alan Taylor, một nhà kinh tế học tại Đại học Virginia, đã nghiên cứu 79 phát triển Cuộc khủng hoảng của đất nước đã xảy ra trong 140 năm qua. Do đó, ông cho rằng tình trạng này vẫn có thể xảy ra ở các nước dựa vào tín dụng trong nước và nợ nước ngoài thấp.
Các nhà đầu tư lạc quan cũng tin rằng Trung Quốc có đủ tiềm năng để bù đắp các khoản nợ xấu vì “họ có hơn 3 nghìn tỷ USD dự trữ ngoại hối và tiền gửi trong nước. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ tiết kiệm cao và nợ nước ngoài thấp ở các nước châu Á Có thể tránh được các cuộc khủng hoảng ngân hàng sau bùng nổ tín dụng và tăng trưởng GDP rất chậm Sau bùng nổ tín dụng vào đầu những năm 1970 và cuối những năm 1980, Nhật Bản đang sử dụng nguồn tài chính dồi dào để hỗ trợ các tổ chức tín dụng yếu kém khi tăng trưởng tín dụng đạt Vào thời kỳ đỉnh cao, GDP giảm mạnh 5 năm sau đó, từ 8% trong những năm 1970 xuống 3%, từ 4% trong những năm 1980 xuống 1%. Nó cũng giảm xuống 6% vào những năm 1980. Đầu những năm 1990 .
Ngay cả khi Trung Quốc tránh được khủng hoảng tài chính, nước này vẫn phải tăng trưởng chậm lại do điều kiện kinh tế kém. Cho đến năm 2007, Trung Quốc cần hơn một đô la nợ để tạo ra một đô la tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tỷ lệ này sau đó đã tăng lên 3 Nợ USD.
Đây là giai đoạn cuối của thời kỳ bùng nổ tín dụng. Vào thời điểm này, ngày càng nhiều khoản nợ được phát hành và hiệu quả đầu tư giảm sút. Tại Trung Quốc, khi vốn dần đổ vào đầu cơ bất động sản, xuất khẩu và sản xuất đang chậm lại . Khoảng một phần ba nợ ngân hàng ở đây là bất động sản, hoặcBảo lãnh bằng bất động sản gần như tương đương với tỷ lệ ở Hoa Kỳ vào năm 2007.
Các chuyên gia cho rằng để đạt được tăng trưởng bền vững hơn, quốc gia phải cân bằng đầu tư bằng cách hỗ trợ tiêu dùng. Trong 10 năm qua, mức tiêu thụ của nước này đã tăng 8% mỗi năm, mức này mạnh hơn bất kỳ nền kinh tế lớn nào (kể cả Nhật Bản) và sẽ không làm tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, khi đầu tư tăng với tốc độ nhanh hơn, đóng góp của tiêu dùng vào GDP sẽ giảm. Do đó, Sharma cho rằng, Trung Quốc cần giảm đầu tư và kiềm chế sự gia tăng nợ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc họ phải chấp nhận mức tăng trưởng GDP từ 5-6%, thấp hơn nhiều so với mức 8% hiện nay. Ở các nước phát triển nhanh, dẫn đầu về đầu tư, chẳng hạn như Brazil trong những năm 1970 và Malaysia trong những năm 1990, tăng trưởng kinh tế nhìn chung giảm một nửa trong thập kỷ sau khi bùng nổ đầu tư. Đồng thời, Trung Quốc đang cố gắng duy trì các mục tiêu tăng trưởng phi thực tế bằng cách dồn thêm nợ vào quả bom nợ sắp phát nổ.
Leave a Comment